0764704929

Tiểu luận môn nguyên lý kế toán chi tiết

Tiểu luận về Nguyên lý Kế toán là một phần quan trọng trong lĩnh vực tài chính và quản lý kinh doanh. Trong đoạn giới thiệu này, chúng ta sẽ khám phá những nguyên lý cơ bản của kế toán và vai trò quan trọng của chúng trong việc ghi chép, phân tích, và thông tin tài chính. Tiểu luận này Công ty Kế toán Kiểm toán Thuế ACC sẽ đi sâu vào nghiên cứu về cách áp dụng các nguyên lý này để cải thiện hiệu suất tài chính của doanh nghiệp và giúp quản lý đưa ra các quyết định thông minh dựa trên dữ liệu kế toán.

Tiểu luận môn nguyên lý kế toán chi tiết
Tiểu luận môn nguyên lý kế toán chi tiết

LỜI CẢM ƠN

Với tấm lòng biết ơn vô cùng sâu sắc, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô Trần Thị Huệ Anh đã tận tâm hướng dẫn chúng em qua từng buổi học, nếu không có những lời hướng dẫn, dạy bảo của cô thì bài tiểu luận này của chúng em chắc
có lẽ sẽ khó có thể hoàn thiện được. Một lần nữa, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô.
Chúng em đã cố gắng vận dụng kiến thức để hoàn thiện bài tiểu luận, nhưng do kiến thức hạn chế và chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế nên khó tránh khỏi thiếu sót trong quá trình nghiên cứu và trình bày. Em rất mong nhận được sự đóng góp, nhận xét và phê bình của cô để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn nữa.

MỞ ĐẦU

Từ năm 2000-2005 được sự giúp đỡ của EU Việt Nam triển khai nghiên cứu và soạn thảo Chuẩn mực kế toán Việt Nam trên nền tảng Chuẩn mực kế toán IASB ban hành từng đợt dưới quyết định của bộ trưởng Bộ tài chính, mỗi đợt ban hành một thông tư hướng dẫn theo quyết định 1141. Vì thế chuẩn mực kế toán Việt Nam có tính tương đồng với chuẩn mực kế toán quốc tế nhưng vẫn có một số điểm khác biệt.

CHƯƠNG 1: BÁO CÁO THU NHẬP TOÀN DIỆN

Một sự khác biệt giữa hệ thống kế toán Việt Nam và quốc tế là về báo cáo thu nhập toàn diện.
Theo IFRS, công ty có thể chọn hai phương án hoặc chỉ lập một bản báo cáo thu nhập toàn diện hoặc lập cả hai bản báo cáo kết quả hoạt động và báo cáo thu nhập toàn diện. Mục đích của việc lập thành hai báo cáo nhằm tách biệt các khoản thu nhập và chi phí chưa được thực hiện hóa với các khoản thu nhập và chi phí đã thực hiện. Các quản lý công ty dễ dàng quan sát được tình hình kinh tế của công ty, từ đó có thể đưa ra các quyết định điều chỉnh, phát triển, các nhà đầu tư, chủ nợ,… sử dụng cho việc đánh giá hoạt động, doanh thu; dự đoán khả năng sinh lợi;… để ra quyết định có nên tiếp tục đầu tư hay không. Các công ty quốc tế cũng có thể chỉ lập một bảng báo cáo thu nhập toàn diện, nhưng họ sẽ gặp khó khăn trong việc tìm ra nguồn gốc phát sinh của một số khoản thu nhập, chi phí trong báo cáo.
Còn theo VAS, các công ty sẽ chỉ lập 1 bản báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Tuy vậy, nó là tổng hợp các khoản mục của báo cáo kết quả hoạt động và thu nhập toàn diện (17 khoản mục bắt buộc, bao gồm 7 khoản bắt buộc của IAS 1: thu nhập, chi phí tài chính, thuế, chi phí phát sinh do ngừng hoạt động, lãi/lỗ phát sinh từ việc xóa tài sản tài chính, từ các đơn vị liên doanh, liên kết, liên quan đến tái phân loại các tài sản tài chính). Người dùng bên ngoài và bên trong đều vẫn có thể dựa vào chúng để đưa ra những quyết định đúng.

CHƯƠNG 2: SỐ LƯỢNG BẢNG CÂN ĐỐI THỬ SAU KHÓA SỔ

Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam chỉ có 1 bảng cân đối thử duy nhất, đó là bảng cân đối thử sau khóa sổ hay bảng cân đối tài khoản. Trong khi đó, quốc tế yêu cầu 3 bảng cân đối thử: trước điều chỉnh, sau điều chỉnh và sau khi khóa sổ.
Điểm khác biệt đầu tiên là bảng cân đối tài khoản bao gồm cột số dư đầu kì – cuối kì, số phát sinh trong kì, trong mỗi cột có 2 cột nhỏ nợ – có, nó giúp quản lí công ty đánh giá được ngay quá trình hoạt động và phát triển của doanh nghiệp trong mọi lĩnh
vực thông qua những chi tiết được thể hiện, xét bảng cân đối thử sau khóa sổ của IFRS, bên cạnh cột tài khoản, chỉ có cột nợ – có, nói cách khác, quản lí công ty chỉ quan sát được kết quả cuối cùng của 1 năm hoạt động. Nhưng cũng bởi vì có 2 bảng cân đối trước đó, họ cũng không gặp khó khăn trong việc xem xét sự tính chính xác của số liệu khi ghi vào sổ tài khoản, lập báo cáo tình hình tài chính.
Điểm khác biệt thứ 2, trong chu trình kế toán theo IFRS, báo cáo tài chính sẽ được lập trước khi công ty lập bảng cân đối thử sau điều chỉnh. Việt Nam thì ngược lại, một bảng báo cáo tài chính tổng hợp được lập sau khi có bảng cân đối tài khoản. Một
sự khác nhau rõ rệt nữa, trong nội dung của bảng cân đối tài khoản có chứa tài khoản thường xuyên (gồm tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu) và cả tài khoản tạm thời (gồm doanh thu, chi phí, cổ tức). Theo thông tư 133/2016/TT-BTC, cột số phát sinh trong kì sẽ được ghi nợ – có bằng nhau, chính vì vậy nó đã thay thế cho các bước khóa sổ như IFRS. Tài khoản tạm thời là các tài khoản không được ghi trong bảng cân đối thử sau khóa sổ của hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế, bởi vì chúng đã bị khóa để sẵn sàng thu thập dữ liệu mới của kì kế toán tiếp theo.
Nhìn chung, cách lập bảng cân đối của cả Việt Nam và quốc tế đều có thể áp dụng, nhưng nếu sử dụng cách quốc tế sẽ dễ hơn trong việc kiểm tra tính cân bằng các số dư, ít gây rối

CHƯƠNG 3: BÁO CÁO TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH

Sự khác nhau giữa các chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRS) và Việt Nam (VAS) được thể hiện thông qua các báo cáo tài chính, cụ thể hơn là báo cáo tình hình tài chính.
Về phía IFRS thì quy định các doanh nghiệp phải phân chia rõ ràng và theo thứ tự là tài sản dài hạn rồi đến tài sản ngắn hạn, kế đến là nợ dài hạn và cuối cùng là nợ ngắn hạn. Chúng phải được sắp xếp theo tính thanh khoản tăng dần hay nói cách khác là
ngược lại với khả năng chuyển đổi thành tiền. Một tài sản được coi là ngắn hạn khi tài sản đó được các doanh nghiệp nắm giữ với mục đích chủ yếu là thương mại; tài sản đó đã được dự tính thu hồi, sử dụng hay bán trong thời gian một chu kỳ kinh doanh; hoặc doanh nghiệp đã dự định thu hồi tài sản đó trong 12 tháng sau ngày kỳ báo cáo kết thúc; một loại tài sản ngắn hạn khác là tiền hoặc ngang bằng với tiền trừ trường hợp tài sản này đã bị cấm không được sử dụng hoặc trao đổi để chi trả nợ trong vòng hoặc hơn 12 tháng sau ngày kỳ báo cáo kết thúc. Ngoại trừ những tài sản đã nêu trên, các tài sản còn lại đều là dài hạn. Nợ được xem là ngắn hạn khi doanh nghiệp nắm giữ nhằm mục đích kinh doanh; hoặc khi dự kiến sẽ hoàn tất thanh toán khoản nợ này trong chu kỳ kinh doanh của mình; hay khoản nợ phải trả đã tới kỳ hạn thanh toán trong thời gian 12 tháng sau khi kỳ báo cáo kết thúc. Những khoản nợ còn lại được xem là nợ dài hạn.
Còn về VAS, hoàn toàn trái ngược với IFRS, trong báo cáo tình hình tài chính, tài sản ngắn hạn được ghi trước rồi mới đến tài sản dài hạn, nợ cũng tương tự như vậy.
Việc phân chia tài sản là ngắn hay dài hạn cũng có những cách giống như IFRS (chủ yếu là thương mại, dự định bán hay sử dụng trong một chu kỳ kinh doanh; định thu hồi tài sản đó trong 12 tháng sau ngày kỳ báo cáo kết thúc). Tuy nhiên cũng có điểm khác biệt, nếu IFRS chỉ được xem tiền hoặc tài sản tương đương là ngắn hạn nếu tài sản đó không bị cấm trao đổi hay thanh toán trong thời hạn 12 tháng sau khi kỳ báo cáo kết thúc thì VAS được xem nó như ngắn hạn mà không có bất kì hạn chế nào. Về phía nợ dài hạn và ngắn hạn thì gần như tương tự nhau. Sự khác nhau này được xem xét dựa theo nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân trong môi trường kế toán. Xét về mặt trực tiếp, do VAS ban hành dựa theo IFRS đã được sử dụng đến cuối năm 2003, sau năm 2003 IFRS đã điều chỉnh, có những thay đổi cũng như bổ sung, trong khi VAS vẫn chưa cập nhật lại. Nếu IFRS luôn hướng tới để đo lường tài sản trên nguyên tắc giá trị hợp lí thì VAS vẫn dựa theo cơ sở giá gốc. Về phía môi trường kế toán, đầu tiên phải kể đến tính cách của người Việt Nam, họ luôn thận trọng, lựa chọn những giải pháp an toàn hơn để giảm thiểu rủi ro bằng cách sử dụng giá gốc thay vì đo lường giá trị hợp lí.

Thứ hai, do nền kinh tế nước ta vẫn còn non trẻ, chưa đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong khi IFRS hướng tới toàn thế giới, còn đối với Việt Nam vẫn cần thời gian để hội nhập thêm nên vẫn chưa thể hoàn toàn theo IFRS. Cuối cùng, VAS phù hợp với đặc điểm
của một nước theo hướng luật thành văn như Việt Nam, trong khi IFRS được xây dựng nhằm phục vụ cho các nước theo hướng thông luật.
Xét về cấu phần của báo cáo tài chính:
Đối với IFRS, cấu phần của báo cáo tài chính sẽ bao gồm:
– Báo cáo tình hình tài chính
– Báo cáo lãi lỗ và thu nhập toàn diện khác (Doanh nghiệp có thể tách riêng thành báo cáo lãi lỗ và báo cáo thu nhập toàn diện khác)
– Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
– Thuyết minh báo cáo tài chính
– Báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu
Còn về cấu phần của báo cáo tài chính đối với VAS bao gồm:
– Bảng cân đối kế toán
– Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
– Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
– Thuyết minh báo cáo tài chính
Báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu được trình bày trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính.

CHƯƠNG 4: SỐ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN

Chuẩn mực kế toán là một tiêu chuẩn quan trọng giúp các doanh nghiệp lập và trình bày báo cáo tài chính, đảm bảo báo cáo có chất lượng cao, chính xác, đồng thời phản ánh chân thật về tình trạng của doanh nghiệp. Chuẩn Mực Kế Toán Quốc Tế
( IAS) hay Chuẩn Mực Báo Cáo Tài Chính Quốc Tế (IFRS) đều được soạn thảo bởi Uỷ Ban Chuẩn Mực Kế Toán Quốc Tế (IASB). Hiện nay có 25 IAS và 16 IFRS (sau gọi chung là IFRS) đang có hiệu lực.
Tại nước ta, Bộ Tài chính đã ban hành hệ thống 26 Chuẩn mực Kế toán Việt Nam (VAS). Các chuẩn mực này được soạn thảo dựa trên các IFRS, điều chỉnh để phù hợp hơn, đồng thời giảm thiểu sự khác biệt nếu có.
Về hình thức, khác với hệ thống kế toán Việt Nam (VAS), hệ thống kế toán quốc tế (IAS) không có sự bắt buộc mang tính hình thức (như biểu mẫu báo cáo thống nhất, hệ thống tài khoản kế toán thống nhất, hình thức sổ kế toán, mẫu các chứng từ gốc
thống nhất). Việc này giúp các doanh nghiệp có tính thống nhất cao và dễ so sánh đối với hệ thống báo cáo. Nhưng IAS không đảm bảo được sự đa dạng, linh hoạt, phong phú khi áp dụng vào các quốc gia khác nhau.
Về hệ thống tài khoản kế toán, IAS/IFRS không quy định hệ thống tài khoản kế toán mà chỉ quy định các Báo cáo tài chính. Doanh nghiệp tự thiết kế hệ thống tài khoản phù hợp với yêu cầu về báo cáo quản trị cũng như báo cáo tài chính. Còn hệ
thống tài khoản của Việt Nam (VAS) mang tính bắt buộc. Việc này sẽ gây ra khó khăn cho doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, sẽ làm giảm tính thống nhất giữa các công ty trong tập đoàn và bất tiện trong việc chuyển đổi
Về khung khái niệm và chuẩn mực, IFRS đã mở rộng một số chuẩn mực so với
VAS, cụ thể như sau:
IAS 41 – Nông nghiệp:
Trong cơ cấu nền kinh tế Việt Nam, nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn nhưng hiện vẫn chưa có chuẩn mực dành cho ngành nông nghiệp như trồng trọt, các hướng dẫn cho kế toán trồng trọt vẫn còn ít, không cụ thể. Trong khi đó, IFRS có IAS 41, được
chính thức áp dụng vào tháng 1 năm 2003, hướng dẫn kế toán đối với các đối tượng: tài sản sinh học, sản phẩm nông nghiệp, trợ cấp chính phủ cho nông nghiệp

Ví dụ: Đối với việc ghi nhận sản phẩm nông nghiệp, IFRS sẽ ghi nhận tại thời điểm thu hoạch (khi sản phẩm được đưa vào trong giao dịch hay quá trình sản xuất, sẽ được quy định theo ISA 02 – Hàng tồn kho), còn VAS ghi nhận dựa trên chi phí thực tế
phát sinh theo hướng dẫn của VAS 02.
IFRS 07, 09 & IAS 32 – Các công cụ tài chính: Đó là ba chuẩn mực được xem là khó, phức tạp, có ảnh hưởng trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính, liên quan tới nhiều tổ chức, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính ngân
hàng. Còn tại Việt Nam chưa có các chuẩn mực này, các thuyết minh theo Thông tư 210 không cung cấp đầy đủ thông tin cho người đọc.
Và các chuẩn mực mở rộng khác như:
IFRS 02 –Thanh toán trên cơ sở cổ phiếu.
IFRS 06 –Thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản.
IAS 19 –Phúc lợi cho người lao động bao gồm: phúc lợi ngắn hạn, dài hạn, trợ cấp thôi việc,…
IAS 20 –Kế toán các khoản trợ cấp của Chính phủ và các hình thức tài trợ khác của Chính phủ

CHƯƠNG 5: HÌNH THỨC SỔ KẾ TOÁN

Sổ kế toán là một trong những giấy tờ quan trọng ghi chép lại các giao dịch kinh tế, tài chính, có vai trò to lớn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kê khai và thống kê số liệu.
Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS)
Chuẩn mực kế toán Việt Nam quy định rằng sổ kế toán gồm sổ kế toán tổng hợp và ngoài ra còn có thêm điểm khác biệt so với chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRS) là số kế toán chi tiết.
1. Sổ kế toán tổng hợp: đây là loại sổ kế toán phản ánh số liệu về các sự kiện kinh tế (các giao dịch), các hoạt động kinh tế tài chính một cách tổng quát chung ghi bằng thước đo giá trị.
1.1 Sổ Nhật ký: dùng để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh trong từng kỳ, từng năm kế toán theo thời gian phát sinh và theo nội dung kinh tế. Số liệu kế toán trên sổ phải phản ánh tổng số phát sinh bên Có và bên Nợ của tất cả các loại tài khoản mà doanh nghiệp sử dụng.
Sổ nhật ký phải có đầy đủ các nội dung sau:
+ Ngày tháng ghi sổ nhật ký.
+ Số hiệu, ngày tháng của các giao dịch kinh tế,tài chính phát sinh để làm căn cứ ghi sổ.
+ Diễn giải hay tóm tắt nội dung của các giao dịch kinh tế, tài chính phát sinh.
+ Số tiền phát sinh của các giao dịch kinh tế, tài chính.
1.2 Sổ Cái: đây là loại sổ dùng để ghi chép các giao dịch kinh tế, tài chính phát sinh trong từng kỳ và trong một niên độ kế toán theo các số liệu ghi trên sổ Nhật ký theo từng nghiệp vụ phát sinh. Các số liệu trong sổ cái phản ánh tổng hợp tình hình nguồn vốn, tài sản, kết quả hoạt động kinh doanh, sản xuất của một doanh nghiệp.
2. Sổ, thẻ kế toán chi tiết: là loại sổ kế toán có tính chất giống với sổ kế toán tổng hợp vì nó phản ánh số liệu của các giao dịch kinh tế, tài chính của doanh nghiệp nhưng thể hiện một cách chi tiết, cụ thể hơn cho số liệu đã được phản ánh trên số kế toán tổng hợp. Sổ kế toán chi tiết được lập để theo dõi chi tiết các tài khoản kế toán của doanh nghiệp có nhiều đối tượng chi tiết liên quan, cung cấp thông tin phục vụ cho quản lí từng loại tài sản, doanh thu, nguồn vốn, chi phí chưa chi tiết trên sổ kế toán tổng hợp.

Ngoài các thước đo giá trị là bắt buộc, còn có các thước đo khác như hiện vật, lao động,.. Số trên số kế toán tổng hợp phải bằng với số trên sổ, thẻ kế toán chi tiết
Chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRS) :
So với chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS), chuẩn mực kế toán quốc tế không bị áp đặt về hình thức sổ kế toán (Ledgers). Hơn nữa doanh nghiệp được sử dụng hệ thống tài khoản kế toán cũng như sổ kế toán phù hợp và thuận lợi với đặc điểm doanh
nghiệp.
Đa số các doanh nghiệp nước ngoài chỉ sử dụng một loại sổ kế toán là sổ kế toán tổng hợp

KẾT LUẬN

Qua các nội dung đã so sánh giữa kế toán Việt Nam với kế toán Quốc tế về báo cáo thu nhập toàn diện, số lượng bảng cân đối thử sau khóa sổ, báo cáo tình hình tài chính, số chuẩn mực kế toán và hình thức sổ kế toán. Có thể thấy các chuẩn mực kế toán Việt Nam được xây dựng trên cơ sở các chuẩn mực kế toán quốc tế nhưng có nhiều điểm khác biệt mang tính trọng yếu. Nhìn chung, hệ thống kế toán Việt Nam có chất lượng chưa cao, chưa tạo ra cơ sở cho sự linh hoạt. Việt Nam cần xây dựng một hệ thống kế toán ít phức tạp và dễ hiểu hơn IAS/IFRS để giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập sâu hơn với các thị trường tài chính quốc tế, đồng thời tạo ra những tác động tích cực lên nền kinh tế trong nước.

    HÃY ĐỂ LẠI THÔNG TIN TƯ VẤN


    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

    0764704929